Lão Tư cố hả miệng ngáp một cách
đau đớn:
- Mày đầu độc tao... Mày đầu độc
tao, con quỉ cái!
Bà Tư gật đầu, đáp bằng một
giọng thật lạnh lùng: - Đúng, tôi đầu độc ông. Trước sau
gì thì ông cũng chết, thầy y tá đã
nói như vậy, chỉ còn là vấn đề
thời gian. Có thể một vài tháng, có
thể một vài năm, và ông hiểu rằng
tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Mười lăm năm nhục nhằn!
Mười lăm năm đầy cay đắng!
Lão Tư nghiến chặt hai hàm răng
vì đau đớn nhưng cũng ráng gừ
lên một tiếng chửi rủa như lão vẫn
chửi rủa vợ lão mỗi ngày trong suốt mười lăm năm qua:
- Con đĩ chó khốn nạn! Trời sẽ phạt
mày.
Bà Tư vẫn lạnh lùng:
- Đáng lẽ mình không nên lấy
nhau. Tôi không hề yêu ông và ông cũng chẳng ưa tôi. Ông căm
hận tôi vì việc ông không lấy
được con Ba cháo lòng. Còn tôi,
ông cũng biết rằng tôi chỉ muốn
làm vợ anh Bảy thợ hồ. Chỉ vì mấy
thửa ruộng của hai nhà sát bên nhau mà cha mẹ ông và cha mẹ
tôi buộc tôi phải lấy ông và ông
phải lấy tôi. Tôi biết đó là cả một
cực hình cho ông cũng như cho
tôi.
Lão Tư vừa lăn lộn vừa chửi rủa: - Đồ con đĩ chó!
Bà Tư vẫn nói bằng một giọng đều
đều:
- Tôi có ý định đầu độc ông từ khi
ông mới ngã bệnh. Thầy y tá nói
rằng ông có thể sống lây lất hàng năm khiến tôi không chịu nổi. Tôi
không còn muốn bị ông đánh đập
chửi rủa mỗi ngày nữa.
Lão Tư rên rỉ:
- Tao cầu mong cho lũ quỉ mặt
xanh nanh vàng tra tấn mày dưới điạ ngục.
- Có thể... Nhưng dầu sao tôi
cũng tìm được sự bình an trên cõi
đời này trước đã. Sống với ông đâu
có khác gì bị ác quỉ hành hạ tra
tấn! Lão Tư vặn mình đau đớn, hai bàn
tay lão nắm chặt lại chịu đựng. Là
một người cứng rắn và mạnh mẽ,
lão cố thu hết tàn lực:
- Tao sẽ trở về từ đáy mộ... con
quỉ cái... Rồi lão ráng giơ một nắm tay về
phía bà vợ:
- Tao sẽ chờ mày...
Kiệt lực, lão buông tay xuống, mồ
hôi tháo ra như tắm, toàn thân
run rẩy: - Trời đất ơi! Đau quá! Như dao
đâm vào ruột...
Đột nhiên bà Tư ngẩng đầu nghe
ngóng. Có tiếng chuông xe đạp.
Bà bước vội tới bên cửa sổ, nhìn ra
ngoài lẩm bẩm: - Sao thầy y tá tới sớm quá vậy hà?
Rồi bà bước tới bên giường,lượm
tấm khăn lông nằm dưới chân
giường cuộn thành một bó đè cứng
vào mặt lão Tư. Ngộp thở, lão Tư
cố vùng vẫy nhưng bà Tư đè nguyên người lên tấm khăn...
Chân tay lão Tư giựt mạnh mấy
cái rồi buông xuôi...
Biết lão đã tắt thở, bà Tư đứng
lên thở phào nhẹ nhõm, ném cái
khăn lông lên lưng ghế trước khi bước ra mở cửa.
Bà nói với thầy y tá vừa bước vào
bằng một giọng lạnh lùng:
- Lão đi rồi sau khi bị bất tỉnh như
mấy kỳ trước. Mấy nhỏ đi học nên
tôi không biết làm sao kêu thầy. Nhưng dầu sao tôi cũng mừng khi
lão không còn hành hạ tôi được
nữa.
Thầy y tá lắc đầu thông cảm. ở
ngôi làng này mọi người đều biết
chuyện của nhau. Thầy đứng nhìn thi thể lão Tư một lát trước khi kéo
cái mền phủ kín mặt lão rồi quay
sang bà Tư:
- Ngồi nghỉ một chút đi bà Tư.
Đừng lo nghĩ gì nhiều, để tôi cho
ông Tám Tàng hay trước khi nói với thầy giáo cho con Hoa và thằng
Đực về ngay bây giờ. Bà Tư có
muốn kêu ai nữa không?
Bà Tư lắc đầu:
- Nhờ thầy nói ông Tám tới đem lão
đi ngay dùm tôi. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Lão đi khuất mắt
tôi sớm phút nào hay phút nấy. Tôi
không muốn nhìn mặt lão nữa.
Bà nói tiếp bằng một giọng đầy cay
đắng:
- Suốt đời lão làm khổ tôi. Tôi thù ghét lão từ ngày phải về với lão.
Bây giờ căn nhà này là của tôi. Tôi
sẽ khóa chặt căn phòng của lão
ngay khi ông Tám đem lão đi. Tôi
không bao giờ muốn nhìn thấy bên
trong căn phòng đó nữa. Chỉ toàn là những kỷ niệm đớn đau, những
lời chửi rủa, hận thù. Tôi sẽ thiêu
rụi căn phòng của lão nếu căn nhà
này không bị ảnh hưởng gì.
Rồi bà ngồi xuống ghế ngước nhìn
thầy y tá bằng đôi mắt lạnh lùng ráo hoảnh. Thầy nhìn bà Tư, nói
bằng một giọng dịu dàng, thông
cảm:
- Bà mệt mỏi quá rồi. Để tôi về lấy
chai thuốc bổ tới cho bà.
- Tôi không cần thuốc bổ. Cái chết của lão là liều thuốc bổ tốt nhất đối với
tôi... Thầy...
Thầy y tá gạt ngang:
- Thôi, không nên nói xấu người
quá cố nữa. Ai cũng biết ông Tư đối
xử với bà ra sao rồi. Để tôi đi kêu ông Tám.
Chưa đầy nửa tiếng sau, ông Tám
Tàng và một thanh niên phụ việc
đẩy xe tới. Bà Tư đứng ngay cửa
phòng chờ cho hai người vừa
khiêng lão Tư ra là bà khóa cửa lại, bỏ chìa khoá vào túi áo:
- Tôi thề sẽ không bao giờ đặt
chân vào căn phòng này cho tới khi
tắt thở.
Hai người đàn ông lắc đầu thông
cảm. Họ hiểu rõ cuộc sống khốn khổ nhục nhằn của bà bên ông Tư từ
nhiều năm qua.
Những năm kế tiếp, bà Tư ra đồng
làm việc cùng các lực điền, và
dành dụm thêm được khá nhiều
vào cái vốn đã đồ sộ của bà. Bà vẫn lạnh lùng, không hề hở môi và
không hề có bạn, như lão Tư
không hề có bạn.
Rồi hai đứa con bà lớn lên. Con Hoa
lập gia đình rồi theo chồng về làng
bên. Bà Tư không nói một lời. Thằng Đực lớn lên ra đồng làm việc
phụ mẹ khiến bà giảm được một
gánh nặng. Rồi thằng Đực lấy vợ
và đem cô dâu mới về ở chung với
bà Tư. Rồi lũ con nít ra đời, sáu
đứa cả thẩy. Nếu những tiếng cười vô tư của bầy trẻ có khiến
tâm hồn bà nội chúng mềm đi một
chút, bà không hề để lộ ra ngoài.
Suốt những tháng năm dài đó, một
cái phòng, được gọi là phòng của
nội, vẫn luôn luôn được khóa chặt. Cả gia đình không một ai
nhắc nhở tới. Lũ trẻ biết có một cái
gì - mà chúng cho là rất kinh khủng
- ở bên trong nên mỗi lúc phải đi
ngang phòng, chúng đi thật lẹ, và
khi bóng tối bao phủ căn nhà, ánh đèn dầu lung linh tạo nên những
hình nhân lắc lư rung động trên
tường, chúng không bao giờ dám
bước tới gần căn phòng của nội. Dĩ
nhiên đầu óc trẻ thơ của chúng
tưởng tượng thật nhiều. Rồi một năm châu chấu phá hoại
mùa màng. Năm sau trời hạn hán
khiến giá thóc gia tăng trong khi
lương bổng bị cắt giảm. Nhiều chủ
điền cho thợ nghỉ việc.
Gia đình Hoa là một trong những nạn nhân đầu tiên. Mùa màng thất
bát, chồng đau ốm rồi một đứa con ra
chào đời! Vợ chồng Hoa bồng con
về xin bà Tư cho ở chung. Bà Tư
vẫn lạnh lùng như thường lệ,
nhường cho vợ chồng Hoa một phòng.
Rồi tới phiên anh rể của Đực bị chủ
điền cho nghỉ việc. Không công
ăn việc làm, không tiền trả tiền
mướn, anh ta cầu cứu vợ Đực.
Nàng dâu bèn thưa chuyện với mẹ chồng.
Bà Tư, lúc này đã già, nói với con
dâu bằng một giọng cương quyết
trong bữa ăn chiều:
- Thêm bốn miệng ăn nữa cũng
chẳng sao. Cho tụi nó tới đây. Nhưng... không biết rồi tụi nó ngủ
ở đâu?
Hoa liếc nhìn Đực trước khi ngập
ngừng nói lên cái ý nghĩ của tất cả
mọi người:
- Phòng của nội. Mình có nên mở cửa phòng cho thoáng khí trước khi
cho họ dọn vào không... mẹ?
Bầu không khí đột nhiên trở nên
yên lặng nặng nề. Bà Tư liếc nhìn
con gái trước khi lần lượt nhìn vào
mặt từng người, gằn giọng: - Mẹ đã thề không bước chân vào
phòng đó cho tới ngày nhắm mắt.
Hoa thu hết can đảm:
- Nhưng mẹ đâu có bước vào đó
làm gì. Nhà mình chật quá đâu còn
chỗ nào khác nữa. Bà Tư đặt đũa xuống bàn nói thật
chậm rãi:
- Nếu có ai ngủ trong phòng đó,
người đó phải là mẹ. Mẹ đã ở với
cha tụi bay mười lăm năm trời,
mười lăm năm đầy đắng cay thù hận. Cha tụi bay ghét mẹ hơn mẹ
ghét ổng. Căn phòng đó đầy
những sự thù ghét và sau mấy
chục năm trời đóng kín, những sự
thù ghét đó hiện đang sôi sục chỉ
chờ cửa mở là tràn ra phủ ngập căn nhà này. Nhưng không sao,
mẹ sẽ dọn vào đó.
Hoa nói bằng một giọng đầy hối hận:
- Phải chi con đừng đưa ra đề
nghị đó. Con biết là có một cái gì
giữa cha và mẹ nằm trong đó, nhưng con không biết...
Bà Tư ngắt lời con gái:
- Một cái gì mà con nói đó chính là
sự thù ghét giữa mẹ và ổng.
Nhưng không sao, mẹ đã già rồi,
hơn bẩy mươi rồi. Chắc mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu
nữa...
Bà ngưng lại, đôi mắt già mỏi mệt
nhìn thật xa xôi:
- Có thể đây là sự tiền định. Ổng
nói rằng ổng sẽ chờ mẹ... Có thể... Ai biết!
Rồi bà đứng lên:
- Mẹ sẽ mở cửa phòng vào sáng
ngày mai.
Dứt lời, bà mím chặt đôi môi, bước
lên cầu thang về phòng ngủ trên lầu.
Vào phòng, bà Tư đóng cửa lại,
ngồi yên lặng trên cái ghế nhỏ bên
giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn vào
hư không trong khi cuốn phim dĩ
vãng hiện ra thật rõ. Bây giờ, bà đang bị thúc giục mạnh mẽ bởi một
ước muốn mà bà vẫn chôn chặt
trong lòng từ gần một nửa thế kỷ,
ước muốn của tất cả những kẻ sát
nhân muốn nhìn lại khung cảnh
phạm trường. Ước muốn này đã tới với bà hàng
ngàn lần trước đó nhưng lần nào
bà cũng nén lòng được. Bây giờ,
chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa
căn phòng sẽ được mở ra, ước
muốn lại trở về, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Căn phòng đóng kín đang
réo gọi bà. Trong óc bà, một tiếng
nói vô cùng mạnh mẽ vang lên
“Bây giờ! Bây giờ!”. Tiếng nói này
rất quen thuộc đối với bà vì đó là
tiếng nói của chính ông Tư, người bà thù ghét, người bà đã giết
chết!
Bà lặng lẽ đứng dậy, bước tới tủ
áo, ngồi xuống mò dưới đáy tủ lấy
cái chìa khóa mà bà đã giấu kín
hàng mấy chục năm trời. Rồi bà trở lại ngồi trên ghế lắng nghe những
tiếng chân lần lượt về phòng. Một
lúc sau, căn nhà tối tăm đã hoàn
toàn yên tĩnh.
Bà Tư đứng dậy hé cửa nhìn ra
dẫy hành lang. Tất cả đều đã ngủ yên. Bà bèn trở vào phòng cầm
cây đèn dầu, mở cửa thật nhẹ rồi
rón rén bước xuống cầu thang.
Ngoài trời không khí bỗng trở nên
nặng nề dường như muốn bão. Bà
nghe tiếng gió rít qua những cành cây. Có một cái gì tương tự như
tiếng gió than van ngoài đêm tối?
Bà Tư ngưng lại, nghiêng tai lắng
nghe và đột nhiên ký ức trở về
thật rõ. Bà lẩm bẩm:
- Giống như đêm trước khi lão chết. Tim bà đập mạnh hơn khi đứng
trước cánh cửa đen ngòm, lạnh
lùng của căn phòng chứa đầy thù
hận. Sau một thoáng ngập ngừng,
bà chuyển cây đèn sang tay trái,
tay mặt lấy cái chìa khóa đút vào ổ khóa... Bà vặn nhẹ... Ổ khóa
không chuyển động... Bà vặn
mạnh hơn... Cạch! Ổ khoá bật ra.
Bà đứng yên một lát, bàn tay đặt
trên nắm cửa. Tự nhiên bà run lên
vì lý do gì không rõ. Bà lẩm bẩm: - Lão đã nói là lão sẽ trở về từ
đáy mộ... Lão sẽ chờ...
Bà vặn nắm cửa, đẩy mạnh. Cái
bản lề cũ kỹ rít lên phản đối trước
khi cánh cửa bung ra... Một làn
sóng hận thù từ trong phòng tràn ra phủ kín người bà.
Bà chậm chạp bước vào, đôi môi
mím chặt. Giơ cao ngọn đèn dầu,
bà quan sát mọi vật trong phòng.
Đó là cái giường với tấm khăn trải
giường nhăn nheo, nơi ông Tư thở hơi cuối cùng - hay không thể
thở hơi cuối cùng? Đó là cái gối mà
ông Tư gối đầu trước khi nhắm
mắt. Mọi vật không hề thay đổi.
Bà Tư thoáng nhớ rằng cả thầy y
tá lẫn ông Tám Tàng, những người cuối cùng đặt chân vào căn
phòng này đều đã ra người thiên
cổ. Kế bên đầu giường là một cái
bàn nhỏ nơi vẫn còn cái ly mà bà
pha thuốc độc cho ông Tư.
Bà lẩm bẩm: - Lão đã nói là lão sẽ chờ...
Căn phòng thật ẩm thấp và bụi
bặm. Bà Tư khép cửa lại, đặt ngọn
đèn dầu lên cái bàn nhỏ bên cạnh
cái ly rồi bước tới bên cửa sổ, mở
toang cánh cửa. Một ngọn gió từ bên ngoài lùa vào, rít lên...
Ngọn đèn chợt lung linh vì gió tạo
nên những bóng đen quái đản
nhảy múa trên tường. Trên lưng
ghế, chiếc khăn lông mà bà dùng
đè cho ông Tư chết ngộp đã trở thành vàng khè, tuy bà vẫn nhìn
thấy thật rõ một đốm đen ở chính
giữa, đốm đen mà bà biết là những
giọt nước rãi cuối cùng của ông Tư.
Bà bước tới giữa phòng, đôi mắt
vẫn không rời khỏi đốm đen trên chiếc khăn lông. Rồi bà lập đi lập
lại:
- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ
đáy mộ... Lão sẽ chờ...
Đột nhiên một cơn gió mạnh thổi ào
qua khung cửa sổ. Ngọn đèn chao lên trước khi tắt ngấm.
Bóng tối bất ngờ khiến bà Tư
hoảng hốt. Lần đầu tiên trong đời
bà biết sợ! Bà liếc nhìn về phía cái
giường, và chợt nhận thấy
dường như có một người đang nằm, mặt quay về phía bà đưa
tay vẫy vẫy. Bà run rẩy bước lui
trước khi té ngồi xuống ghế. Một cơn
gió mạnh thổi chiếc khăn lông bung
lên chùm kín mặt bà Tư. Bà hoảng
hốt giẫy giụa trong bóng tối và cảm thấy chiếc khăn lông như một con
bạch tuộc với những cái vòi gớm
ghiếc đang xiết chặt quanh cổ bà.
Bà đưa hai tay lên cố kéo mạnh
chiếc khăn lông ra trong khi bên tai
bà, tiếng ông Tư vang lên mồn một: “Tao sẽ trở về từ đáy mộ... Tao sẽ
chờ mày...” Sáng sớm hôm sau,
người ta thấy bà Tư nằm chết
trong căn “phòng của nội”. Quanh
cổ bà là chiếc khăn lông vàng khè,
chiếc khăn mà bà dùng hạ sát ông Tư