Tôi sinh ra đã là một đứa trẻ
mồ côi cha. 16 tuổi, trái tim
non nớt của một cô gái thôn
quê như tôi đã phải trả giá
sau một cuộc tình vụng trộm. Bào thai cứ mãi lớn dần mà
không được thừa nhận. Chỉ
có mẹ bên cạnh và chăm sóc
tôi những ngày “vượt cạn”. Rồi mẹ tôi không qua khỏi
sau một cơn bạo bệnh. An
táng cho mẹ xong, tôi
mang một món nợ lớn sau
những chuỗi ngày thuốc
thang chạy chữa. Ôm đứa con thơ vào lòng, với vốn liếng
chỉ 5.000 đồng, tôi quyết
định lên thành phố Huế để
kiếm tiền trả nợ và ước mong
được đổi đời. Cuộc sống đô thị
trái ngược với những suy nghĩ đơn giản của cô gái chốn
quê nhà như tôi. Tôi đã
không tránh khỏi những cám
dỗ của cuộc đời, để rồi tìm đến
với một cái nghề mà người
đời khinh rẻ: làm gái bia ôm. Tôi trở thành một người
hoàn toàn khác. Tôi hát và
chiều lòng khách bằng
những cái vuốt ve. Tuy đã là
người dấn thân vào chốn
“bùn lầy” nhưng tôi quyết giữ mình, không ngủ với khách.
Bởi tôi rất sợ bị công an bắt
đi cải tạo thì đứa con của tôi sẽ
không nơi nương tựa. Nhưng
tên bảo kê đã hết sức phẫn
nộ khi biết tôi không chịu “nhảy chúi” (ngủ với khách).
Hắn điên cuồng hăm dọa và
xông tới chuẩn bị đánh tôi.
Chính trong lúc hỗn loạn ấy đã
có một người đàn ông ra tay
cứu giúp. Sau này, tôi được biết anh từng là một trong
những cầu thủ của đội bóng
Bình Trị Thiên. Sau lần gặp đó, anh thường
đến thăm tôi, hỏi han và chia
sẻ. Trái tim tôi dần dần được
sưởi ấm nhờ sự quan tâm
của anh. Chúng tôi yêu
nhau tự lúc nào không biết. Anh ngỏ lời cầu hôn khiến tôi
trở nên ngỡ ngàng. Mẹ anh
đã ngất lên ngất xuống khi
nghe con trai nói muốn kết
hôn với một cô gái bia ôm.
Nhưng anh đã chấp nhận rời gia đình để cùng tôi về quê
nghèo làm lại cuộc đời. Cuộc sống của vợ chồng tôi
những tháng ngày đầu thật
khó khăn nhưng cũng đầy hạnh
phúc. Để nuôi mẹ con tôi, từ
sáng sớm anh đã vào rừng lấy
củi. Anh nhận làm thuê cho những ai có việc với số tiền
ít ỏi. Có khi anh lại ra đầu làng
để sửa xe đạp, tìm cách mưu
sinh, nuôi sống gia đình bé
nhỏ của chúng tôi. Vậy mà
vẫn khổ, bờ vai anh đã bị lột rách vì vác củi. Tôi vừa
thương anh mà cũng vừa sợ
anh nản. Đến năm 1999, tôi
sinh cho anh một cu cậu
kháu khỉnh. Anh hạnh phúc
đến tuôn trào nước mắt. Khó khăn chồng chất, bao nhiêu
công việc từ lớn đến nhỏ đều đổ
lên đầu anh. Thấy khổ quá, tôi
nghĩ phải tìm việc gì đó để làm.
Nghe theo một người bạn,
gia đình chúng tôi vào Đà Nẵng cùng mọi người đi lấy
củi thước về bán. Cứ mỗi
sáng sớm, hai vợ chồng phải
bơi qua một con sông để tiết
kiệm tiền đi đò, vào rừng lấy
củi, cả ngày làm cũng chỉ được 20.000 đồng. Một ngày,
lúc hai vợ chồng tôi đang lấy
củi thì gặp một người dân
tộc thiểu số, họ hỏi chúng tôi
không biết chữ hay sao mà
không đọc được bảng “cấm phá rừng” ở trước mặt. Nghe
xong câu nói, tôi vừa thẹn
với người dân tộc thiểu số ấy
mà cũng vừa tủi cho cái
nghèo. Vợ chồng tôi lại khăn gói về
quê. Tôi nghĩ tại sao mình
chỉ nghĩ đến phá rừng mà lại
không biết trồng rừng. Năm
2003, tôi về xin làm dự án
“Phủ kín đất trống đồi trọc” ở ngay trên vùng núi Khe Băng
quê mình. Tự dưng tôi trở
nên mê rừng từ lúc nào
không hề hay biết. Đến năm
2006, Phòng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn đã hỗ trợ tôi một dự án nuôi cá
rô phi. Thật không ngờ
chính nguồn nước sạch của
khe đã giúp cá mau lớn và
chỉ sau một thời gian ngắn
tôi đã thu hoạch được 3 tạ cá. Trang trại của tôi ngày một
phong phú hơn, bao gồm 4ha
rừng, 1 hồ cá, 5 sào vườn
cây ăn quả và 2ha măng cao
sản. Giờ đây, mọi người khi tìm đến
nhà tôi đều hỏi là: “Có biết chị
Thùy hoàn lương về làm
trang trại không?”. Tôi không
xấu hổ bởi hiểu rằng không
ai có thể chối bỏ quá khứ của mình, nhưng tất cả đều có
thể làm lại từ đầu.